Du khách tham quan độc bản Truyện Kiều trưng bày tại Khu lưu niệm Nguyễn Du. Ảnh: Đậu Hà
Trước hết đó là 3 tập thơ chữ Hán: Thanh Hiên thi tập (78 bài), Nam Trung tạp ngâm (34 bài), Bắc hành tạp lục (131 bài) in đậm bản sắc và bản lĩnh cá nhân của một hồn thơ rất giàu tình thương đời, tình yêu nước và yêu dân. Cùng với thơ chữ Hán là thơ Nôm, với Văn tế thập loại chúng sinh, Thác lời trai phường nón và Sinh tế Trường Lưu nhị nữ…
Nếu chỉ bấy nhiêu thôi, Nguyễn Du cũng đã đủ tư cách một tác gia tiêu biểu, ở hàng đầu của văn chương Việt trung đại như nhiều tên tuổi khác trước và sau ông. Thế nhưng, Nguyễn Du còn là tác giả của Truyện Kiều và đây mới thực là một sự kiện làm thay đổi tầm vóc, khiến cho Nguyễn Du trở thành một đỉnh cao đột xuất của văn chương Việt.
Với tầm vóc đó, rất dễ dàng và nhanh chóng, không chỉ công chúng Việt mà về sau là cả nhân loại nhận ra ngay một tương đồng giữa Nguyễn Du với nhiều danh nhân khác trên thế giới. Có nghĩa là, Truyện Kiều là kết quả một thăng hoa đột xuất của Nguyễn Du, khiến cho chỉ cần nói đến Truyện Kiều là đủ để nói Nguyễn Du - người đã đem lại một giá trị tinh thần rất tươi mới và đặc trưng cho văn chương Việt, ngôn ngữ Việt, bản sắc Việt, hồn Việt…
Truyện Kiều có sức sống bền vững như thế nào thì đã có một lịch sử ngót 200 năm minh chứng với bao nhiêu bộ tuyển, hàng nghìn trang bình và luận do hàng trăm tác giả thành danh viết ra, nếu tính từ bài viết đầu tiên, năm 1820 - năm Nguyễn Du qua đời, của Mộng Liên Đường chủ nhân: “… nếu không có con mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời thì tài nào có cái bút lực ấy”.
Trên dưới 35 văn bản dịch Truyện Kiều của hơn 20 ngôn ngữ trên thế giới trong hơn một thế kỷ qua và vẫn đang được tiếp tục - đó là đường biên rộng nhất cho sức lan tỏa của một tác phẩm. Ảnh Internet
200 năm, không lúc nào Nhân dân ta ngừng nghỉ việc đọc Kiều, lẩy Kiều, vịnh Kiều, tập Kiều, xướng họa về Kiều, dựng sân khấu Kiều..., qua đó tạo nên một văn hóa Kiều rất độc đáo trong gương mặt văn chương Việt, văn hóa Việt.
3254 câu Kiều, đó là bộ bách khoa thư của đời sống Việt trong hơn 200 năm qua. 3254 câu, câu nào cũng có thể in sâu vào bộ nhớ con người, để cho những bà mẹ không biết chữ có thể thuộc lòng hàng trăm câu, hoặc đọc ngược từng đoạn mà vận vào mọi tình huống sống của đời mình; để cùng với ca dao, dân ca khắp các vùng miền mà tạo nên hồn cốt Việt, tâm linh Việt, bản sắc Việt, bản lĩnh Việt…
Như vậy, nói Nguyễn Du, qua Truyện Kiều là nói một chủ nghĩa nhân văn sâu sắc và rộng lớn gắn với một tư duy nghệ thuật vượt tầm thời đại. Nhưng như vậy vẫn là chưa đủ để nói về đóng góp của Nguyễn Du và giá trị của kiệt tác Truyện Kiều.
Truyện Kiều có sức sống vượt thời gian, bởi đó là sự kết nối và đưa tới đỉnh cao tuyệt vời vẻ đẹp và sức sống của ngôn ngữ Việt, của tiếng Việt. Một tiếng Việt đến từ các truyền thuyết giữ nước và dựng nước của cha ông từ chiều sâu bốn nghìn năm lịch sử, nhờ đó mà lưu giữ được cho muôn đời sau truyện con Rồng cháu Tiên, Thánh Gióng, Sơn Tinh - Thủy Tinh, các vua Hùng, nó là biểu trưng và kết tinh cho sự chống chọi với âm mưu xâm lược và đồng hóa của phương Bắc trong hàng nghìn năm.
1 bức thuộc bộ tranh Kiều trong đồ án tốt nghiệp Khoa Thiết kế đồ họa - Trường Đại học Mỹ thuật công nghiệp Hà Nội của nữ hoạ sỹ Phạm Đức Hạnh (SN 1997, xã Phú Lộc, huyện Can Lộc).
Một tiếng Việt trong 254 bài của Quốc âm thi tập, có giá trị không thua Bình Ngô đại cáo của cùng một danh nhân Nguyễn Trãi, thế kỷ XV. Một tiếng Việt rất bác học và rất dân gian, rất cổ điển và rất hiện đại trong 3254 câu thơ Kiều, xứng danh là “thiên thu tuyệt diệu từ” (Phan Thạch Sơ), là một khúc “Nam âm tuyệt xướng” (Đào Nguyên Phổ);
3254 câu với 22.778 chữ gần như tất cả cứ mới mẻ, cứ nguyên vẹn, cứ tinh khôi như thế mà có ở khắp cửa miệng mọi người dân Việt suốt hơn 200 năm qua; mà in sâu vào bộ nhớ của bất cứ ai sinh ra trên dải đất mang hình chữ S này.
Một tiếng Việt của Truyện Kiều, của Nguyễn Du là một tiếng Việt dành cho muôn người, cho mọi nhà. Một tiếng Việt có nguồn cội từ nhiều nghìn năm, trong đó ở đỉnh cao, luôn cập được các bến bờ thời sự, đó là tiếng Việt của Nguyễn Du, được kết tinh trong Truyện Kiều, để, với Truyện Kiều, nói như học giả Phạm Quỳnh: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn. Tiếng ta còn, nước ta còn”.
Hoặc nhà thơ Chế Lan Viên: “Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn”. Để thấy Truyện Kiều là truyện cho muôn người, cho mọi nhà và cho mọi thời. Rất hiện đại, rất đương thời mà vẫn trong khuôn hình cổ điển. Rất cổ điển mà vẫn có sức vượt thời gian để đến với thời hiện đại, với con người hiện nay, người bây giờ.
Đó là một Nguyễn Du vĩnh cửu cho người đọc, không chỉ ở thời điểm 1965 hoặc 2015 - nhân kỷ niệm 200 năm và 250 năm ngày sinh Nguyễn Du, hoặc 2020 - kỷ niệm 255 năm ngày sinh, tưởng niệm 200 năm ngày mất của Đại thi hào. Cũng không phải 300 năm sắp tới như câu hỏi “bất tri tam bách…” của Nguyễn Du, mà là nghìn năm - “Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du”, như khẳng định của Tố Hữu.
Hình tượng các nhân vật Truyện Kiều trên sân khấu múa trong vở diễn “Bale Kiều”. Ảnh Intrernet
Năm 2020 là thời điểm, là cơ hội cho tất cả chúng ta - những công dân Việt tiếp tục mở rộng và đi sâu vào các giá trị tinh thần gần như vô tận mà Nguyễn Du và Truyện Kiều đã để lại. Đó sẽ là các công trình khoa học nhằm tiếp tục phát hiện các giá trị mới ở Nguyễn Du trong tương ứng với thời đại và trên các cách tiếp cận mới của các giới học giả hàng đầu của dân tộc.
Là sự mở rộng các phương thức quảng bá giá trị Truyện Kiều trên tất cả các loại hình nghệ thuật truyền thống và hiện đại như: âm nhạc, hội họa, sân khấu, múa, múa rối, ba lê, điện ảnh, truyền thanh, truyền hình…
Là các phương thức đưa Truyện Kiều và Nguyễn Du vào tất cả các bậc học của nền giáo dục phổ thông và đại học bằng những bài giảng, những cuộc thi, những giải thưởng; bên cạnh sự hỗ trợ về vật chất và tinh thần cho những tấm gương trẻ em hiếu học trên mọi miền đất nước.
Rộng ra, vào bất cứ lúc nào, việc khai thác và phổ cập các tri thức đầy đủ, mới mẻ gắn với niềm tự hào về những gì liên quan đến Nguyễn Du như là một tài sản tinh thần vô giá của dân tộc.