Đại hội toàn quốc đảng Dân chủ Mỹ (DNC) ở Chicago, bang Illinois vừa qua (18-22/8) đã chính thức chọn Phó Tổng thống Kamala Harris làm ứng cử viên của đảng Dân chủ trong cuộc bầu cử tổng thống vào ngày 5/11 tới.
Trong hơn một tháng qua kể từ khi được Tổng thống Joe Biden bất ngờ giới thiệu, bà Harris đã giành được những thành công hiếm có và bứt phá ngoạn mục trong cuộc đua với ứng cử viên đảng Cộng hòa Donald Trump, kể cả ở một số bang "chiến trường". Nhưng liệu điều đó có được tiếp tục duy trì và đủ để giúp phó tổng thống da màu gốc Nam Á hiện nay làm nên lịch sử, khi trở thành nữ tổng thống đầu tiên của "xứ cờ hoa"?
Đây là câu hỏi không dễ giải đáp bởi nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau. Thời gian đến ngày cử tri đi bỏ phiếu chỉ còn hơn 2 tháng, nhưng cũng đủ để "mọi kịch bản có thể xảy ra", nếu không phải vì một diễn biến bất thường hiếm gặp nào đó, thì cũng vì những thách thức rất phức tạp và toàn diện mà bà Harris đang phải đối mặt.
Thứ nhất, trong suốt một thời gian dài, chiến dịch bầu cử tổng thống Mỹ năm 2024 chủ yếu là cuộc đua giữa đương kim Tổng thống Biden với cựu Tổng thống Trump. Cuộc đua luôn ở thế giằng co cho đến khi hai ứng cử viên có cuộc tranh luận trực tiếp đầu tiên vào đầu tháng 6.
Tại cuộc tranh luận này, sự suy giảm cả về thể lực lẫn trí lực bởi tuổi tác của Tổng thống Biden đã bộc lộ rất rõ khiến ông nhanh chóng đánh mất niềm tin không chỉ của dư luận mà cả trong nội bộ đảng Dân chủ.
Trái lại, vụ ám sát hụt ông Trump ngày 13/7 khi cựu Tổng thống đang vận động tranh cử ở Pennsylvania và Đại hội toàn quốc đảng Cộng hòa ở Milwaukee ngay sau đó 2 ngày đã giúp ông Trump vươn lên dẫn trước khá vững chắc trước ông Biden.
Trong bối cảnh như vậy, dưới áp lực ngày càng lớn và liên tục từ nội bộ đảng Dân chủ, trước hết là những nhân vật quyền lực như cựu Chủ tịch Hạ viện Pelosi và cựu Tổng thống Barack Obama, ngày 21/7, Tổng thống Biden đã tuyên bố rút lui và giới thiệu Phó Tổng thống Harris làm ứng cử viên thay ông tiếp tục chiến dịch tranh cử.
Đảng Dân chủ đang tỏ ra có sự đoàn kết, thống nhất cao trong quyết tâm giúp ứng cử viên mới thắng cử. Cá nhân bà Harris cũng có những lợi thế rõ rệt so với ông Biden, nhất là về sức khỏe, tuổi tác và sự minh mẫn. Tuy nhiên, đây dường như cũng chỉ là giải pháp tình thế bắt buộc, chứ không phải là một giải pháp mang tính chiến lược được đảng Dân chủ chuẩn bị kỹ càng từ trước.
Hơn nữa, việc ông Biden rút lui khỏi cuộc đua vào phút chót như vậy không phải là hoàn toàn tự nguyện. Theo báo chí Mỹ, đã có sự rạn nứt nhất định trong quan hệ giữa một bên là đương kim Tổng thống Biden với bên kia là ông Obama và bà Pelosi. Do vậy, những rủi ro đối với sự đoàn kết, thống nhất trong đảng Dân chủ cũng như chiến dịch tranh cử của Phó Tổng thống Harris là hoàn toàn có thể xảy ra.
Thứ hai, việc ông Biden giới thiệu bà Harris thay ông tiếp tục cuộc đua với cựu Tổng thống Trump đánh dấu lần đầu tiên một tổng thống đương nhiệm phải rút khỏi cuộc đua khi tất cả đã bước vào giai đoạn nước rút.
Tuy nhiên, lịch sử bầu cử tổng thống Mỹ cũng từng chứng kiến một số lần tổng thống đương nhiệm quyết định không tái tranh cử, mà lần gần nhất là cuộc bầu cử năm 1968. Đó là khi Tổng thống Lyndon Johnson tuyên bố không chạy đua thêm một nhiệm kỳ nữa, mà quyết định giới thiệu đồng minh gần gũi của mình là Phó Tổng thống Alfred Humphrey đứng ra tiếp tục cuộc đua.
Mặc dù đã dễ dàng trở thành ứng cử viên của đảng Dân chủ, Phó Tổng thống Humphrey đã không được đa số cử tri ủng hộ và thất bại trước ứng cử viên đảng Cộng hòa Richard Nixon.
Nhìn lại tiền lệ lịch sử này, có thể thấy hiện nay bà Harris đang phải đối mặt với thách thức tương tự. Tuy nhiên, bối cảnh chính trị xã hội Mỹ hiện nay đã khác năm 1968 rất nhiều.
Theo kết quả thăm dò của viện Gallup công bố ngày 10/8, 58% người Mỹ cho rằng đất nước cần có một sự thay đổi lớn, trong đó 42% ủng hộ việc có nữ tổng thống. Con số này cho thấy cơ hội của bà Harris lớn hơn ông Humphrey năm 1968, nhưng cũng đặt ra những áp lực trong việc thuyết phục cử tri về khả năng lãnh đạo của mình.
Thứ ba, "tuần trăng mật" mà bà Harris đang tận hưởng rất đặc biệt khi nữ ứng cử viên đã nhanh chóng đảo ngược sự thất thế và liên tục bám đuổi ông Trump của Tổng thống Biden. Ngoài ra, số tiền 500 triệu USD mà chiến dịch của bà Harris vận động được ngay trong 3 tuần đầu đã "phá vỡ mọi kỷ lục" trước đây.
Mặc dù vậy, khó có thể nói đó hoàn toàn là do cá nhân bà Harris, mà phần không nhỏ đến từ sự ưu ái của đảng Dân chủ và đông đảo dư luận dành cho ứng cử viên mới.
Đặc biệt, những cử tri là nữ giới, trẻ tuổi vốn đang thất vọng trước sự thể hiện lép vế toàn diện của Tổng thống Biden thời gian qua, nay bất ngờ thấy có hy vọng và hứng khởi ủng hộ nữ ứng cử viên mới trẻ trung và năng động. Theo một thăm dò của CNN vào ngày 18/8, 72% cử tri nữ dưới 35 tuổi ủng hộ bà Harris, so với 45% ủng hộ ông Biden trước đây.
Mặc dù vậy, sự ủng hộ mạnh trên khó có thể ổn định và bền vững, nhất là khi các ứng cử viên phải đi sâu trình bày những nội dung chính sách chủ chốt mang tầm quốc gia. Cử tri, trước hết là phái nữ, rất có thể dễ dàng thay đổi quan điểm nếu thấy ở chiến dịch của bà Harris có những nội dung không thể đồng tình.
Báo Al Jazeera đưa tin, mới đây nhóm "Phụ nữ Hồi giáo vì bà Harris", vốn ủng hộ mạnh mẽ đảng Dân chủ và cá nhân ứng cử viên Harris lâu nay, đã tự giải tán sau khi yêu cầu của họ về việc cử đại diện tới Đại hội đảng Dân chủ để trực tiếp bày tỏ sự ủng hộ dành cho người Palestine và phản đối việc Israel không ngừng nhắm mục tiêu vào phụ nữ, trẻ em Palestine ở Dải Gaza bị ban tổ chức đại hội bác bỏ.
Đây hẳn là một điều bất lợi đối với bà Harris, báo hiệu "tuần trăng mật" đã kết thúc và những vấn đề phức tạp, khó khăn hơn còn đang ở phía trước.
Thứ tư, tại đại hội toàn quốc đảng Dân chủ ở Chicago vừa qua, bà Harris đã cố gắng thoát khỏi "cái bóng lớn" của Tổng thống Biden với những đề cập sơ bộ về một số đường hướng chính sách cụ thể. Đặc biệt, trong bài phát biểu chấp nhận đề cử, bà Harris đã đưa ra một kế hoạch kinh tế 5 điểm nhằm giải quyết các thách thức kinh tế với điểm nhấn là đầu tư vào năng lượng sạch, cải cách hệ thống thuế và mở rộng chương trình chăm sóc sức khỏe.
Tuy vậy, nếu tình hình trong thời gian tới tiếp tục xấu đi, đặc biệt là tại điểm nóng Trung Đông và cuộc chiến ở Ukraine, nơi chính quyền đang can dự rất sâu còn ông Trump lại có quan điểm trái ngược, có thể đẩy chiến dịch tranh cử của bà Harris vào nguy cơ mất điểm trong con mắt của đa số cử tri Mỹ.
Đồng thời, với tư cách là phó tổng thống đương nhiệm, ngoài những lợi thế tự nhiên xuất phát từ trọng trách đó, bà Harris cũng khó có thể "vô can" trong những thất bại của chính quyền hiện nay. Đó trước hết là cuộc rút quân đầy hỗn loạn khỏi Afghanistan mùa hè 2021 và những hệ lụy do việc sa lầy ở Ukraine hiện nay khiến nguy cơ vũ khí hạt nhân và khả năng nổ ra Thế chiến 3 ngày càng hiện hữu và được nói đến nhiều hơn bao giờ hết.
Trong khi đó sự lúng túng và thiếu hiệu quả mà nền y tế Mỹ đã gặp phải trước đại dịch Covid-19, tình trạng kinh tế gần đây tăng trưởng chậm lại, lạm phát tăng cao, công ăn việc làm được tạo ra ít hơn kỳ vọng và dòng người nhập cư bất hợp pháp qua biên giới phía nam vẫn không được ngăn chặn…
Theo báo cáo mới nhất của Bộ Lao động Mỹ ngày 20/8, tỷ lệ lạm phát trong tháng 7 năm nay đã tăng lên 4,2% trong khi lạm phát hồi tháng 6 chỉ là 3,8%. Những vấn đề trên có thể sẽ trở thành "điểm trừ" lớn đối với bà Harris, nếu ông Trump chuyển từ công kích cá nhân, gốc gác và giới tính của đối phương sang những "thành tích" trên của Phó Tổng thống Harris và đường hướng chính sách tương lai của bà.
Thứ năm, việc bà Harris tập trung thể hiện mình như một ứng cử viên chỉn chu, nghiêm túc khởi đầu từ một tổng chưởng lý ở California đối lập với một doanh nhân Trump luôn có vấn đề với luật pháp, thậm chí gần đây đã bị truy tố về 31 tội danh cụ thể và sắp tới còn phải tiếp tục ra tòa…; hay việc bà Harris đang cố gắng thể hiện là biểu tượng của sự thay đổi và luôn hướng về tương lai đối lập với ông Trump bị cho là bảo thủ, đầy thành kiến với phụ nữ và không đáng tin cậy cũng luôn có hai mặt.
Về lý thuyết và trước mắt, điều trên có thể là ưu thế rất có lợi cho nữ ứng cử viên của đảng Dân chủ, nhưng thực tế trên chính trường Mỹ, ít nhất là trong một thập niên qua, đã chứng minh doanh nhân Trump là một hiện tượng rất đặc biệt và không ai có thể chủ quan xem nhẹ. Dù bản thân luôn song hành với những tai tiếng đủ loại, ông Trump vẫn có sức hút đặc biệt, không dễ gục ngã và kiên cường một cách khó tin.
Theo một thăm dò của Quinnipiac University công bố ngày 19/8, 51% cử tri Cộng hòa cho rằng những cáo buộc pháp lý chống lại ông Trump chỉ là "cuộc săn lùng phù thủy chính trị", trong khi chỉ có 31% tin đó là những cáo buộc hợp pháp.
Thứ sáu, sau thời gian ban đầu bị bất ngờ, thậm chí có thể là cả hoang mang và mất phương hướng khi bỗng dưng đối thủ không còn là đương kim tổng thống cao tuổi hơn mình và đang kiệt sức, mà là một nữ ứng cử viên đang ở độ tuổi chín và đầy năng lượng, ông Trump đang dần trở lại là chính mình và đã sẵn sàng cho cuộc tranh luận trực tiếp trên truyền hình với bà Harris.
Hiện mọi thứ vẫn còn để ngỏ, nhưng thực tế cho thấy, trong khi ông Trump đầy kinh nghiệm tranh luận, bà Harris lại chưa trải nghiệm nhiều về mặt này và rất ít trực tiếp trả lời phỏng vấn. Theo phân tích của Washington Post ngày 22/8, trong 20 cuộc phỏng vấn truyền hình gần đây nhất của bà Harris, chỉ có 3 cuộc là trực tiếp và không có chuẩn bị sẵn. Điều này có thể gây bất lợi cho bà Harris trong các cuộc tranh luận sắp tới với ông Trump, người nổi tiếng với tác phong ứng biến nhanh nhạy trên sân khấu chính trị.
Đáng chú ý là ngoài việc được tỷ phú công nghệ Mỹ Elon Musk gần đây quyết định quay sang ủng hộ, ông Trump còn vừa đạt được một thành công rất có ý nghĩa khi vận động được ứng cử viên độc lập Robert Kennedy Jr., hậu duệ của gia đình Kennedy đầy quyền lực ở Mỹ, đồng ý dừng chiến dịch tranh cử riêng để chuyển sang ủng hộ cho ứng cử viên của đảng Cộng hòa.
Diễn biến mới này chắc chắn sẽ ảnh hưởng bất lợi tới tổng số phiếu bầu cho bà Harris, bởi ông Kennedy ban đầu là một trong những đối thủ của Tổng thống Biden trong cuộc đua giành đề cử của đảng Dân chủ và từng có tới 20% cử tri ủng hộ. Theo một thăm dò của Morning Consult vừa công bố, sau khi được ông Kennedy tuyên bố ủng hộ, tỷ lệ ủng hộ dành cho ông Trump đã tăng 3 điểm phần trăm từ 44% lên 47%, trong khi tỷ lệ ủng hộ bà Harris giảm 2 điểm xuống còn 44%.
Thứ bảy, các cuộc thăm dò dư luận trước bầu cử tổng thống ở Mỹ tuy được tiến hành theo các phương pháp rất tiên tiến nhưng vẫn luôn có xác suất sai lệch. Tại các cuộc thăm dò dư luận trong cuộc bầu cử tổng thống tháng 11/2016, bà Hillary Clinton luôn dẫn trước ông Trump với tỷ lệ đủ để đảm bảo chắc thắng. Tuy vậy, cuối cùng người giành chiến thắng lại là doanh nhân Trump, chứ không phải nữ chính trị gia lão luyện Clinton như nhiều người dự báo.
Với giả định bà Harris sẽ vượt qua tất cả thách thức trên, ngoại trừ việc bà là ứng cử viên nữ và đang giữ trọng trách cao trong chính quyền (lý do quan trọng khiến bà Hillary Clinton thất bại trước ông Donald Trump trong cuộc bầu cử năm 2016), sắp tới bà Harris có trở thành nữ tổng thống Mỹ đầu tiên hay không có lẽ cũng vẫn phụ thuộc rất nhiều vào việc người Mỹ đã thực sự sẵn sàng chấp nhận một nữ chính trị gia, đặc biệt là một phụ nữ da màu gốc Ấn, làm tổng thống hay chưa.
Từ năm 2016 đến nay, xã hội Mỹ đã có những thay đổi đáng kể. Theo Trung tâm nghiên cứu Pew, số người Mỹ sẵn sàng bỏ phiếu cho một nữ ứng cử viên tổng thống đã tăng từ 52% lên 68% - một tín hiệu đáng khích lệ cho bà Harris.
Nhìn tổng thể, có thể nói cuộc đua giữa bà Harris và ông Trump hiện không chỉ là sự đối đầu giữa hai cá nhân, mà còn là cuộc tranh luận về tương lai của nước Mỹ, trong đó bà Harris đại diện cho một tầm nhìn mới hơn, hướng nhiều tới tương lai với những thay đổi mạnh mẽ, còn ông Trump bảo thủ hơn, tiếp tục hướng về quá khứ với thông điệp "Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại" đã thành công từ 8 năm trước.
Khi ngày bầu cử 5/11 đến gần, mỗi cử tri Mỹ sẽ phải đối mặt với quyết định quan trọng không chỉ cho bản thân mà còn cho tương lai của đất nước. Cùng chờ đợi ngày đó để xem bước ngoặt lịch sử có được tạo ra trong cuộc bầu cử lần này hay không. Đây cũng chính là điều làm cho cuộc bầu cử tổng thống Mỹ năm nay trở nên đặc biệt thú vị và thu hút được sự quan tâm rộng rãi của dư luận không chỉ ở nước Mỹ mà còn trên toàn thế giới.
Tác giả: Ông Ngô Tiến Long là nhà ngoại giao đã nghỉ hưu; nguyên là Cục trưởng Cục Cơ yếu Bộ Ngoại giao. Ông cũng từng là Phó Tổng Biên tập báo Quốc tế (nay là Báo Thế giới & Việt Nam).