Thế giới từng biết đến Việt Nam qua những câu chuyện “chấn động địa cầu” gắn với lịch sử dựng nước, giữ nước hào hùng được bồi đắp không ngừng bởi chủ nghĩa yêu nước chân chính và tinh thần độc lập mạnh mẽ. Ngày nay, thế giới còn biết đến Việt Nam qua một câu chuyện khác, là phần tiếp nối của câu chuyện đầu tiên, nhưng với nhiều nội dung hết sức mới mẻ: một Việt Nam hội nhập và đổi mới thành công, một hình mẫu từ chiến tranh đến hòa bình, từ nghèo đói đến thịnh vượng.
Việt Nam sau gần 40 năm đổi mới: Những chỉ số biết nói
Khi các học giả thế giới bắt đầu viết nhiều hơn về Việt Nam trong vai trò một “quốc gia tầm trung mới nổi” 10 năm trước, không ít người trong số chúng ta còn cảm thấy điều đó phải chăng còn quá sớm. Tuy vậy, nếu lấy tiêu chí của một quốc gia tầm trung trên 2 tiêu chí chính là năng lực và hành vi ứng xử, chúng ta cùng xem Việt Nam đang ở đâu trên bản đồ địa chính trị và địa kinh tế thế giới.
Trước hết là về năng lực, hay sức mạnh của quốc gia trên các chỉ số cơ bản. Với gần 100 triệu dân, hiện nay, Việt Nam xếp thứ 15 về dân số trong tổng số gần 200 quốc gia trên thế giới. Điều đáng nói là Việt Nam có một cấu trúc dân số trẻ, với độ tuổi trung bình là 33,2, số lượng người trong tuổi lao động chiếm gần 70%. Cấu trúc dân số trẻ đem đến cho Việt Nam nhiều lợi thế nổi bật, đặc biệt là trong thời đại của đổi mới sáng tạo. Về phát triển, Việt Nam đứng trong nhóm 40 quốc gia có nền kinh tế lớn nhất thế giới, quy mô năm 2023 gấp 96 lần so với năm 1986. Việt Nam cũng nằm trong nhóm 20 nước có quy mô trao đổi thương mại và đầu tư hàng đầu thế giới. Dù mới đạt mức thu nhập trung bình, song chỉ số phát triển con người (HDI) luôn ở mức cao trong nhiều năm qua.
Trên các chỉ số quan trọng khác là sự ổn định chính trị, tiềm lực QP-AN, ngoại giao, sức mạnh mềm và mức độ hấp dẫn về văn hóa, Việt Nam ngày càng được đánh giá cao. Theo đó, Việt Nam được xem như một quốc gia an toàn, thân thiện hàng đầu, điểm đến ưa thích của du khách và các nhà đầu tư quốc tế. Về đối ngoại, từ chỗ bị bao vây cô lập, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia, mạng lưới 32 khuôn khổ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện, trong đó có toàn bộ 5 nước là Ủy viên Thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và các nền kinh tế của Nhóm G7. Với 17 Hiệp định Thương mại tự do (FTA), tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt gần 450 tỷ USD, với hơn 41.000 dự án đến từ hơn 143 quốc gia và vùng lãnh thổ, Việt Nam đã trở thành một mắt xích quan trọng trong các chuỗi cung ứng của khu vực châu Á - Thái Bình Dương và thế giới.
Nhìn vào thực tế trên, có thể khẳng định Việt Nam không còn là một nước nhỏ. Ngoại trừ chỉ số thu nhập bình quân đầu người (còn ở mức trung bình), Việt Nam đã nằm ở “nhóm nửa trên” về năng lực quốc gia trong so sánh quốc tế.
Trên phương diện hành vi, Việt Nam được thế giới nhìn nhận như một quốc gia tích cực, có trách nhiệm với cộng đồng quốc tế. Thực tế là sau khi Việt Nam đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương, ví dụ thông qua việc đảm trách nhiều vị trí tại các tổ chức quốc tế và khu vực như Liên hợp quốc, ASEAN, APEC, tiểu vùng Mê Kông hay bằng các hành động cụ thể như đóng góp lực lượng gìn giữ hòa bình và trung gian tổ chức Thượng đỉnh Mỹ - Triều Tiên thì ứng xử của Việt Nam ngày càng được dư luận quốc tế quan tâm nhiều hơn.
Trên nền tảng chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa vì hòa bình, hợp tác và phát triển, Việt Nam luôn duy trì và quan hệ hợp tác sâu rộng, thực chất với các nước láng giềng, các nước lớn, các đối tác quan trọng và bạn bè truyền thống. Thay vì “chọn bên”, Việt Nam đã thực thi chính sách “4 không”: không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.
Bên cạnh việc quan tâm làm sâu sắc hơn quan hệ với các nước, Việt Nam còn thực sự coi trọng thúc đẩy phát triển “hợp tác theo chiều ngang” tại khu vực và trên thế giới. Chính vì vậy, trong những năm qua, Việt Nam đã có nhiều đóng góp tích cực, quan trọng, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao về xóa đói giảm nghèo, thu hẹp khoảng cách phát triển, ứng phó với biến đổi khí hậu, nhất là cam kết đưa mức phát thải về 0 vào năm 2050, bảo đảm an ninh lương thực và nhiều lĩnh vực khác trong khuôn khổ ASEAN, Liên hợp quốc, APEC, phong trào Không liên kết, hợp tác Nam - Nam, trở thành một tiếng nói được tôn trọng trong nhóm các nước đang phát triển.
Từ hai góc độ năng lực và hành vi đó, có thể khẳng định Việt Nam đã trở thành một câu chuyện thành công với vai trò, vị thế ngày càng cao trên trường quốc tế.
Nhìn về phía trước: Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Ngày 31/10/2024, trong trao đổi chuyên đề “Kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”, Tổng Bí thư Tô Lâm đã khẳng định, “đó là kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản, xây dựng thành công nước Việt Nam XHCN, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu”.
Tầm nhìn của Tổng Bí thư cũng là mong muốn của Đảng, của dân tộc, thể hiện qua quyết tâm hoàn thành 2 mục tiêu 100 năm: đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng, Việt Nam là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - nay là nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Công tác đối ngoại cũng như của các lực lượng, do vậy, sẽ bám sát vào việc thực hiện các mục tiêu đó.
Các mục tiêu trên là hoàn toàn khả thi nếu chúng ta có thể khơi thông nguồn lực và sức mạnh tổng hợp của quốc gia. Nguồn lực đó trước hết bắt nguồn từ Nhân dân, từ sức mạnh nội tại của Việt Nam, đồng thời có thể kết hợp đa tầng với sức mạnh của thời đại. Khi đất nước được đặt đúng vào dòng chảy của quy luật và xu thế chung, sức mạnh nội sinh sẽ được nhân lên.
Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang bước vào giai đoạn phục hồi nhưng không đồng đều và bấp bênh, dưới tác động của cạnh tranh địa chính trị và cuộc cách mạng khoa học công nghệ, các quốc gia đều đứng trước những thử thách và cơ hội vô cùng to lớn. Việt Nam sẽ không phải là ngoại lệ. Thử thách sẽ ngày càng lớn bởi thế giới đang trở nên bất định và bất ổn hơn trong giai đoạn quá độ sang một trật tự mới. Nhưng bên cạnh đó, vận hội sẽ đến nhờ khả năng phát triển bứt phá của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất kiểu mới dựa trên đổi mới sáng tạo, nhất là trí tuệ nhân tạo và lượng tử. Thế kỷ XXI sẽ tiếp tục có những câu chuyện “thần kỳ” về kinh tế và có thể diễn ra với tốc độ còn nhanh hơn so với trước.
Trước mắt, Việt Nam cần tranh thủ tối ưu nguồn lực từ bên ngoài để giải quyết bài toán lớn: vượt qua bẫy thu nhập trung bình và tránh nguy cơ bị tụt hậu. Kể từ năm 1960 đến nay, chỉ chưa có đến 20 nước trong tổng số 100 nước thoát bẫy thu nhập trung bình. Để đạt mục tiêu trở thành nước phát triển vào năm 2045, Việt Nam phải đạt mức tăng trưởng trên 7%/năm trong vòng 20 năm tới. Đây là một thách thức không dễ vì năng suất lao động quốc gia còn thấp, dư địa tăng trưởng theo chiều rộng không còn, cơ cấu nền kinh tế còn bất cập, hạ tầng chiến lược thiếu đồng bộ. Đặc biệt, Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều “điểm nghẽn về thể chế” cần “cuộc cách mạng tinh gọn” về tổ chức bộ máy trong hệ thống chính trị như ý kiến chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm. Nếu được định vị tối ưu trên trường quốc tế, chúng ta có thể một phần hóa giải những thách thức trên.
Từ góc độ đối ngoại và hội nhập quốc tế, con đường phía trước cho Việt Nam là tiếp tục đổi mới và đổi mới mạnh mẽ thông qua việc phát huy vai trò, vị thế của Việt Nam và tranh thủ các điều kiện bên ngoài thuận lợi phục vụ các mục tiêu an ninh và phát triển đất nước.
Cụ thể, trong những thập kỷ tới, Việt Nam cần phấn đấu trở thành một trong những thành viên quan trọng của ASEAN, sẵn sàng đi đầu, dẫn dắt trong những vấn đề Việt Nam có lợi ích và khả năng, tiếp tục đóng vai trò tích cực, chủ động và có trách nhiệm vào nền chính trị thế giới, kinh tế toàn cầu và văn minh nhân loại. Vai trò, vị thế của Việt Nam bắt nguồn từ thực lực của đất nước và ứng xử của Việt Nam trong cộng đồng quốc tế. Đồng thời, một nước Việt Nam có vai trò, vị thế ngày càng cao trên trường quốc tế sẽ góp phần đắc lực vào việc hiện thực hóa các mục tiêu chiến lược của đất nước trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.