Mỗi sớm mai, khi phố còn ngái ngủ, tôi lại nghe tiếng rao từ đầu ngõ vọng vào:
- Ai tôm, cá, mắm chi khôông?
- Ai ruốc, nước mắm, cá khô nỳ!
Trong mỗi tiếng rao, tôi nghe thấy cả hơi thở của biển, vị mặn của muối và sự tảo tần của những phận người chở cá nuôi con, chở cả một phần của biển đi qua tháng ngày nhọc nhằn mà không mất đi niềm tin, không vơi đi nụ cười. Mùi biển mằn mặn phả qua khoảng không giữa con ngõ nhỏ khiến lòng tôi chùng xuống như có ai gõ nhè nhẹ vào ký ức.
Năm hơn 20 tuổi tôi mới lần đầu ra biển nhưng tôi đã gặp biển từ ấu thơ, đã nếm vị biển trên những con đò vạn chài từ Cửa Hội ngược dòng Lam, La, ngược dòng Ngàn Phố đến làng tôi bán cá. Thuở ấy, ngoài những ngôi chợ chính trong vùng, những người ở biển thường dong thuyền dọc các làng ven sông, bến nào cũng có thể trở thành một ngôi chợ xép, dăm ba bữa họ ghé một lần, mỗi lần như thế là các làng quê ven sông lại xôn xao mua bán. Chứng kiến những bán mua ấy, lắng nghe cái giọng nói mặn mòi vị biển ấy, trong tôi cứ lớn dần một thứ tình thương với biển, với những cảnh đời rong ruổi tảo tần...
Những người đàn bà bán cá rong trên phố tôi ở bây giờ thường rời làng chài từ tinh mơ, họ chở cá bằng xe máy, rong ruổi khắp các con ngõ quen. Họ bán lâu dần thành quen, khi đã quen thì tự định hình địa bàn và chia nhau đi rong. Mỗi người có một “tệp” khách hàng quen, quen đến cả thuộc sở thích từng nhà. Thế nên, hôm nào có món hợp nhà nào thì họ đứng hẳn trước ngõ, gọi tên khách ra mua. Ấy cũng là một "dư vị" đặc biệt được khai sinh từ những bước chân rong ruổi, khiến người ở phố cũng cảm thấy thân thuộc.
Tôi nhớ chị Lan – nhân vật trong một bài viết cũ của tôi. Chị từng là hậu phương, từng chỉ quanh quẩn ngồi nhà đan lưới chờ chồng đi biển trở về. Bẵng đi một thời gian, tôi gặp chị đi bán cá rong.
- Chồng chị mất mấy năm rồi, bão không kịp trở về. Không tìm thấy anh nên chị phải làm mộ gió. Mất chỗ dựa, để nuôi con, chị đành phải bươn chải!
Tôi ngắm nhìn chị - mái tóc chị nhuộm nắng, da sạm muối, đôi mắt đã mờ đục mà thấy vị biển dâng lên mặn chát nơi đầu lưỡi.
Chị bạn đi cùng chị kể, mỗi buổi thuyền về, chị Lan cùng mấy người bạn buôn trong làng hẹn nhau ở bến cá Cửa Sót. Họ mua cá tươi của ngư dân vừa cập bờ, chia nhau mỗi người một phần, không ai giành giật của ai cả. Rồi họ cùng nhau nướng cá, ướp cá để cùng nhau dong xe đi đến các vùng khác bán rong.
- Biển cho cá, cho cả cái tình. Mình lấy của biển thì phải biết thương nhau mà sống.
Câu nói nghe giản dị mà thấm thía, triết lý của người từng trải qua mất mát và nhận được yêu thương. Câu nói gợi cho tôi nhớ về những người phụ nữ bán cá biển ở ngôi chợ nơi tôi sống. Mỗi người một góc, hàng hoá có khi khác nhau, có khi giống nhau. Khách mua của ai cũng được, chưa bao giờ thấy họ giành khách hay có một thái độ, lời nói nào ảnh hưởng đến việc bán hàng của bạn. Thậm chí, người này đông khách quá thì người bên cạnh cũng sẵn lòng làm giúp. Đó là khi tôi thấy vị biển thật đậm đà. Cũng là lúc tôi cảm nhận được cái vị tình trong những người phụ nữ bán cá làng biển. Vị biển đã theo cái vị tình ấy mà thấm lan sang những người họ gặp…
Giờ đây, nhiều người không chỉ đi bán rong hay chạy chợ nữa. Họ học cách làm cá khô, mắm tép, tôm khô, nước mắm rồi đóng gói, dán nhãn. Có người còn biết quay video, đăng mạng xã hội, khách trong Nam ngoài Bắc đều đặt hàng. “Bọn chị học dần dần thôi, có đứa cháu chỉ cho. Cũng muốn con cái thấy mẹ không chịu thua ai nhưng mà vẫn thích đi bán rong em à. Vất vả nhưng vui và nói thật là cũng nhớ khách quen của mình” - chị Trung, người bán cá rong ở ngõ nhà tôi nói đầy xúc cảm.
Câu nói của chị Trung làm tôi nhớ bà Giáo - người bán cá mà tôi đã gặp ở ngôi chợ chỉ có 4 người bán ở ốc đảo Hồng Lam. Bà Giáo là ngư dân thứ thiệt nhưng vì chứng kiến cảnh người dân ốc đảo đi chợ khó khăn mà quyết định đổi nghề buôn bán thực phẩm. Tôi nhớ, hằng ngày bà mang sang ốc đảo rất nhiều món nhưng không ngày nào thiếu món cá biển. Bà từng nói: Đó là “vị biển” mà bà muốn mang theo khi bỏ nghề. Ấy cũng là lần đầu tiên tôi nhìn thấy được cái mênh mông của “vị biển”.
Tôi đã từng nghĩ, “vị biển” ở đâu đó ngoài khơi xa nhưng không, vị biển còn thật đậm đà trong từng bước chân của những người đàn bà bán cá. Và, “vị biển” mà họ mang đi không chỉ là mùi của gió, của muối mà còn là cách người miền biển sống cùng gian khó. Biển dạy họ biết nhẫn nại mà không cam chịu, biết cứng cỏi mà vẫn chan hòa. Từ những mùa sóng dữ, họ học được cách thương nhau lặng lẽ, cưu mang nhau qua những ngày chật vật. Cái mặn ấy ngấm dần vào giọng nói, ánh mắt, vào cả dáng người sớm hôm bên gánh cá.
Người Hà Tĩnh bao đời nay sống khổ nhưng ít nói về nỗi khổ. Ở người miền biển, điều đó càng rõ ràng. Đằng sau mỗi tiếng cười là những năm tháng nặng nhọc, là bóng người đàn bà tần tảo "một nắng hai sương". Mỗi lần nghe tiếng rao quen ngoài ngõ, tôi lại thấy trong lòng dâng lên một mùi vị đặc biệt. Không biết là của cá, của biển hay của cái tình ở những người phụ nữ bán cá mà tôi gặp. Cái vị mặn mòi ấy khiến tôi trân trọng hơn, yêu mến hơn những người phụ nữ đã mang vị biển theo mình đi khắp nẻo. Từ họ, vị biển neo vào phố, đượm đà trên miền trung du, núi cao... Từ họ, biển chan hoà trong tình yêu thương của con người...