Hồn quê trong văn thơ Hải Thượng Lãn Ông qua tác phẩm Thượng Kinh ký sự

(Baohatinh.vn) - Những trang văn, bài thơ của Hải Thượng Lãn Ông về quê hương, làng mạc, núi non… đến nay vẫn luôn hấp dẫn, cuốn hút, điều này được thể hiện rất rõ trong Thượng Kinh ký sự.

1. Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (1724 - 1791) là một Đại danh y có đóng góp lớn cho nền y học dân tộc, là nhà văn, nhà thơ, nhà khoa học xuất sắc của Việt Nam ở thế kỷ XVIII.

bqbht_br_o4.jpg
Một số bộ sách (phục chế) của Đại danh y như: Hải Thượng Y tông tâm lĩnh, Hải Thượng Lãn Ông toàn thư, Y gia tâm lĩnh... tại nhà thờ Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác ở huyện Hương Sơn.

Lê Hữu Trác để lại một sự nghiệp đồ sộ với các tác phẩm nổi tiếng như Thượng Kinh ký sự, Châu ngọc cách ngôn, Nữ công thắng lãm, Vệ sinh yếu quyết… Đặc biệt là bộ Hải Thượng Y tông tâm lĩnh (28 tập, chia thành 66 quyển), được coi là cuốn Bách khoa toàn thư về Đông y, là cột mốc đánh dấu bước tiến mới, mở đường cho sự phát triển của y học cổ truyền Việt Nam.

Hải Thượng Y tông tâm lĩnh cho thấy nền y học cổ truyền Việt Nam có chân lý riêng, gắn liền kinh nghiệm thực tiễn, phù hợp với phong thổ và dược liệu Việt Nam; một nền y học thuần Việt, thấm nhuần đạo đức và đầy tính nhân văn, nhân đạo. Ngoài lĩnh vực y học, bộ sách còn có giá trị về nhiều lĩnh vực như: văn học, lịch sử, giáo dục, văn hoá học….

Hải Thượng Y tông tâm lĩnh có giá trị không chỉ ở trong nước Việt Nam mà còn ở nhiều nước trên thế giới.

z6008978018028-3fae36a76a682953f84dd5c0d155696c.jpg
Tác phẩm “Thượng kinh ký sự” của Lê Hữu Trác do Phan Ngọc dịch (NXB Hà Nội, 2020). (Ảnh: Internet).

Không những là một thầy thuốc giỏi, luôn hết lòng chữa bệnh cứu người, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác còn là một nhà văn với lối viết gần gũi, giản dị, tinh tế, trong sáng… Những trang văn, bài thơ của ông về quê hương, làng mạc, núi non, sông nước, thái độ sống… đến nay vẫn luôn hấp dẫn, cuốn hút; điều này được thể hiện rất rõ trong Thượng Kinh ký sự.

Ngay ở đoạn mở đầu của Thượng Kinh ký sự, tác giả viết: “Tôi thường dắt tiểu đồng lên núi. Tha hồ ngắm cảnh khói mây để tiêu khiển; hoặc ngồi ở đình Nghênh phong mà buông câu; hoặc ngồi ở lầu Tị huyên mà gảy đàn; hoặc ngồi ở đình Tối quảng mà đọc sách; hoặc ngủ trước bàn cờ ở nhà Di chân. Tha hồ vui thú. Thường ngà ngà say mới về…”[1].

(Đình Nghênh phong: Đình đón gió; Lầu Tị huyên Lầu tránh ồn ào; Đình Tối quảng: Đình rất rộng; Nhà Di chân: Nhà vui thú tự nhiên. Nhà Nho xưa thường đặt tên những nơi mình ở để ngụ ý mình).

Dọc hành trình lên Kinh đô chữa bệnh, khi đi từ Hoàng Mai đến Long Sơn, trước cảnh đẹp của núi non hùng vĩ, Lê Hữu Trác viết: “Ngày 22, tôi đem tùy tùng đi trước. Phía Tây, núi non trùng trùng điệp điệp, khi ẩn khi hiện trong đám mây trắng. Trên đường, có mấy ngọn núi nhỏ đứng tách riêng. Buổi chiều, nơi trắng nơi vàng làm cho cánh đồng thêm vẻ đẹp. Tôi đến núi Long Sơn, thấy một nơi quanh co, cổ thụ um tùm, thật là mát mẻ. Đá xếp như bàn, dàn ra thâm thấp có vẻ ngay ngắn lắm…”[2].

Cũng trên hành trình thượng kinh, khi đến nghỉ ở một chợ huyện, gặp một nhà sư, tác giả bộc bạch: “Chỗ tôi ở tuy là nơi núi non hẻo lánh, chỉ được cái nhàn hạ, tịch mịch: mây đầu non, trăng mặt biển, lòng tôi lưu luyến không nỡ rời. Ngày nay, không biết bao giờ tôi mới được trở về vui chơi với hươu nai, nói chuyện với bạn chài, người hái củi dưới bóng trời chiều”[3].

Bằng những ngôn từ mộc mạc, giản dị nhưng đã vẽ lên bức tranh của vùng quê Hương Sơn và nhiều nơi khác thật hữu tình, nước non, mây trời, trăng sao hòa quyện, không gian thật đẹp, yên bình. Tả cảnh Hồ Tây lung linh, huyền ảo, tác giả phác họa: “Tôi từ giã cụ xuống thuyền. Thuyền ra khỏi cái núi đá giữa hồ. Trông ra, nước biếc trời xanh, long lanh sóng gợn. Từng đàn cò trắng bay lượn, uyên ương từng cặp rập rờn ở bên kia bờ. Ở mé đê bóng cây Ly cung um tùm phất phơ, khi ẩn khi hiện. Trên cái bãi ở giữa hồ, một dãy lâu đài nổi lên. Cỏ hoa đua thắm, tiếng ca chài vang lên dưới bóng trời chiều. Chuông chùa vang lên giục mặt trời lặn. Tôi ngồi trong thuyền lấy làm khoan khoái vô cùng…”[4].

Là một người nặng lòng với quê hương, gia đình dòng tộc nên khi có dịp về quê, nhớ lại những ngày tuổi trẻ, Lê Hữu Trác không khỏi bùi ngùi: “Nguyên làng tôi có một cái đầm nhỏ hình cái bầu. Làng có hai xóm: một xóm ở trong, một xóm ở ngoài. ở giữa bắc một cái cầu để hai bên đi lại. Trên mặt cầu, dựng một cái nhà ngói, hai bên bắc ván. Bên ngoài, có đóng bao lơn bằng gỗ để người đi chơi nghỉ ở đây. Đàn bà trong làng đến đấy ngồi bán nước chè, bán rượu, bánh trái, nem chả. Lúc còn bé tôi thích ra đây chơi, ngày nào cũng vậy. Đầu mùa hạ, mưa to, nước sông lớn chảy vào mạnh, tôi thường cùng anh tôi (bây giờ là Thự trấn Lạng Sơn) ra đây tắm, nào hụp nào lặn, đến đêm khuya mới về…”[5].

2. Không chỉ trong văn xuôi, cảnh sắc làng quê hiện lên trong thơ của Lê Hữu Trác cũng rất sinh động, chân thực. Thơ của ông có sự tích hợp, đan xen giữa nhiều thể loại, từ thất ngôn bát cú, ngũ ngôn, tứ tuyệt, có khi chỉ một bài nhưng cũng có lúc lại hai, ba, bốn bài đi liền, có khi là bài họa…

Bằng những ngôn từ mộc mạc nhưng Hải Thượng Lãn Ông đã vẽ lên bức tranh của vùng quê Hương Sơn và nhiều nơi khác thật hữu tình.

Bằng những ngôn từ mộc mạc nhưng Hải Thượng Lãn Ông đã vẽ lên bức tranh của vùng quê Hương Sơn và nhiều nơi khác thật hữu tình.

Đọc thơ Lê Hữu Trác sẽ thấy phảng phất thi tứ của thơ Lý Bạch, cảm nhận ở ông một con người hồn nhiên, vui vẻ, yêu đời, yêu cuộc sống, hòa mình vào thiên nhiên. Lê Hữu Trác quan niệm làm thơ: “Thơ là để nói lên cái chí của mình. Chí của con người như thế nào thì thơ cũng như thế…”. Ông đã nói rõ: “Tuy thơ cốt ở ý, ý có sâu xa, thơ mới hay. Phải làm cho người đọc phải suy nghĩ mới hiểu được thì mới hay. Không phải bất cứ điều gì cũng phải nói ra bằng lời. Như thế mới là thơ có giá trị”.

Cất khăn thâm, dép mo chân xỏ,

Mang gươm, đàn, núi cũ về mau.

Anh hùng cài cửa trồng rau,

Cày mây, câu nguyệt, một bầu thanh cao.

Chén bên ao, trăng mời hai ngả;

Đàn cạnh song, hoa nở trăm màu

Cưỡi lừa, ác xế ngàn dâu,

“Lạc mai” khúc địch nghe đâu từng hồi!

Khi ở trọ tại Kinh đô, ông viết “Nhà trọ đêm mưa cảm hoài”:

Mưa sa gió táp thình lình,

Đìu hiu quán trọ mối tình ngổn ngang.

Cây xa, mây khói mơ màng,

Hồ bằng, mặt nước sáng choang sóng dồi…

Nhiều đêm, nhìn trăng nhớ về Hương Sơn, ông cảm tác:

Ấy mảnh nguyệt Hương Sơn đó thật

Sao đêm đêm soi đất thần kinh?

Nương lầu đàn hát rập rình,

Muôn vàn màu sắc, đài đình gần sông…

154d4212128t2617l1-70d6213139t2405l7-01-6490-6486.jpg
Tuy là một thầy thuốc giỏi, một người được Nhân dân yêu quý, được xã hội nể trọng nhưng trước sau, Lê Hữu Trác vẫn là một con người của đồng quê thôn dã... (Ảnh: internet).

3. Điểm qua một vài điều về hồn quê trong thơ văn Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác để thấy rằng, tuy là một thầy thuốc giỏi, một người được Nhân dân yêu quý, được xã hội nể trọng nhưng trước sau, Lê Hữu Trác vẫn là một con người của đồng quê thôn dã, một con người luôn hòa mình vào cuộc sống của Nhân dân, cảm thương và trách nhiệm trước cuộc sống của người dân.

Nghĩ về thời đại ông, trong khi tầng lớp nho sĩ thường chuộng từ chương, văn chương khuôn mẫu, ưa điển tích điển cố thì ít người viết về làng quê, sử dụng ngôn ngữ bình dân, dễ hiểu, dễ đi vào lòng người, phản ánh cuộc sống rất đời thường như Lê Hữu Trác. Đây cũng chính là một mảng màu làm nên điều đặc biệt trong Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, để ông hoàn toàn xứng đáng được hậu thế kỷ niệm, tôn vinh.

[1]. Lê Hữu Trác, Thượng Kinh ký sự, Nxb Thông tin, 1989, tr.7.

[2]. Lê Hữu Trác, Thượng Kinh ký sự, Nxb Thông tin, 1989, tr.16.

[3]. Lê Hữu Trác, Thượng Kinh ký sự, Nxb Thông tin, 1989, tr.20.

[4]. Lê Hữu Trác, Thượng Kinh ký sự, Nxb Thông tin, 1989, tr.88.

[5]. Lê Hữu Trác, Thượng Kinh ký sự, Nxb Thông tin, 1989, tr.114-115.

Chủ đề 300 năm Ngày sinh Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác

Đọc thêm

NSƯT Tạ Hồng Dương: “Con đò” ngược xuôi giữa đôi bờ ví, giặm

NSƯT Tạ Hồng Dương: “Con đò” ngược xuôi giữa đôi bờ ví, giặm

Không biết từ bao giờ, tôi đã ghi nhớ về NSƯT Tạ Hồng Dương - hiện là Phó Giám đốc Trung tâm Nghệ thuật truyền thống Nghệ An – trong hình ảnh một con đò. Có lẽ là khi dòng chữ tên anh vang lên trong lời giới thiệu về đạo diễn của vở kịch hát dân ca nào đó, có thể là khi tên anh lặng lẽ hiện lên ở phần giới thiệu thành phần sáng tạo một chương trình nghệ thuật được phát trên truyền hình, cũng có thể là khi anh lặng lẽ ngồi làm giám khảo một cuộc liên hoan dân ca ví, giặm ở Hà Tĩnh… Dù ở đâu, trong vai trò nào, anh cũng hiện lên giản dị, như con đò cần mẫn ngược xuôi giữa đôi bờ ví, giặm.
Tiên Điền hôm nay...

Tiên Điền hôm nay...

Tựa vào núi Hồng, soi bóng dòng Lam, Tiên Điền (Hà Tĩnh) hôm nay mang dáng hình rộng mở, năng động.
Hoàng giáp Vũ Diệm - Người con núi Hồng làm rạng danh quê hương

Hoàng giáp Vũ Diệm - Người con núi Hồng làm rạng danh quê hương

Ít ai biết rằng, câu thành ngữ nổi tiếng một thời ở kinh đô Thăng Long “Bút Cấm Chỉ, sĩ Thiên Lộc” nói về vùng đất hiếu học ở Hà Tĩnh là xuất phát từ người học trò có tên Vũ Diệm, quê ở làng Thổ Vượng, sau này thi đỗ Hoàng giáp, giúp nước, giúp dân.
Không ngừng “làm dày” di sản Nguyễn Du và Truyện Kiều

Không ngừng “làm dày” di sản Nguyễn Du và Truyện Kiều

Cùng với công tác bảo tồn, BQL Khu di tích Nguyễn Du (xã Tiên Điền, Hà Tĩnh) đã nỗ lực sưu tầm nhiều tư liệu, hiện vật, khảo cứu và xuất bản nhiều ấn phẩm liên quan về Đại thi hào Nguyễn Du, dòng họ Nguyễn Tiên Điền, Truyện Kiều..., qua đó, làm dày thêm và lan tỏa di sản Nguyễn Du.
Người thợ cốp pha lan tỏa lối sống đẹp

Người thợ cốp pha lan tỏa lối sống đẹp

Không danh lợi, không ồn ào, chỉ lặng lẽ cứu người, giúp đời bằng cả tấm lòng - đó là cách anh Đậu Văn Mân (Đội trưởng đội cứu hộ, cứu nạn 0 đồng SOS Mân Côi Hà Tĩnh) đang sống và hành động suốt những năm qua.
"Vì người nghèo" - Hành trình của yêu thương!

"Vì người nghèo" - Hành trình của yêu thương!

Những ngôi nhà được dựng lại sau bão, những mô hình sinh kế được trao cho người dân đã tạo nên dòng chảy yêu thương lan tỏa, thể hiện trách nhiệm, tinh thần đoàn kết trong mục tiêu phát triển bền vững ở Hà Tĩnh, không để ai bị bỏ lại phía sau.
"Cây sáng kiến" ở Vườn quốc gia Vũ Quang

"Cây sáng kiến" ở Vườn quốc gia Vũ Quang

Hơn 12 năm công tác tại Vườn Quốc gia Vũ Quang (Hà Tĩnh), anh Lê Thanh Toán đã trở thành tấm gương tiêu biểu về tinh thần trách nhiệm, lòng tận tụy và sự sáng tạo trong công tác quản lý, bảo vệ rừng và bảo tồn đa dạng sinh học.
Những bông hoa đẹp trong phong trào thi đua yêu nước

Những bông hoa đẹp trong phong trào thi đua yêu nước

Không chỉ giỏi việc nước, đảm việc nhà, nhiều phụ nữ Hà Tĩnh đã và đang tỏa sáng trong các phong trào thi đua yêu nước, trở thành những bông hoa đẹp, góp phần làm rạng rỡ thêm truyền thống của phụ nữ Việt Nam.
Vì sao người Hà Tĩnh ưu tiên làm nhà kiên cố, mua xe?

Vì sao người Hà Tĩnh ưu tiên làm nhà kiên cố, mua xe?

Nếu người ở những tỉnh có mưa thuận gió hòa từng sống, trải qua những ngày tháng tại Hà Tĩnh như tháng 10 này, sẽ thấu hiểu vì sao người quê tôi dồn tiền bạc, chắt bóp để làm nhà kiên cố, mua xe...
Còn mãi ký ức Ngày Giải phóng Thủ đô

Còn mãi ký ức Ngày Giải phóng Thủ đô

Đã 71 năm trôi qua, song với cựu chiến binh Hồ Sỹ Cúc (95 tuổi, TDP Liên Công, phường Trần Phú, Hà Tĩnh), ký ức hào hùng về ngày cùng đồng đội tiến qua 5 cửa ô về tiếp quản Thủ đô (10/10/1954) vẫn vẹn nguyên niềm tự hào.
Cái duyên với Truyện Kiều

Cái duyên với Truyện Kiều

Truyện Kiều với chủ nghĩa nhân văn cao cả, nghệ thuật đặc sắc đã đến với nhiều quốc gia, dân tộc trên thế giới, thực sự mang nhiều giá trị xuyên thời đại. Trong niềm hãnh diện chung đó, những người con Hà Tĩnh nói chung và những người con xa quê nói riêng luôn tự hào, ngưỡng mộ Đại thi hào Nguyễn Du và nỗ lực lan tỏa Truyện Kiều với bè bạn gần xa.
Sức mạnh nội sinh trên chặng đường mới

Sức mạnh nội sinh trên chặng đường mới

Con người Hà Tĩnh, với những giá trị đặc trưng không ngừng được củng cố, hun đúc, phát triển qua các thời kỳ chính là sức mạnh nội sinh để xây dựng và phát triển quê hương.