1. Lễ hội chùa Hương Tích
Nhắc tới những lễ hội vào mùa xuân ở Hà Tĩnh không thể không nói đến lễ hội chùa Hương Tích (Can Lộc). Gắn với ngôi cổ tự trên 700 năm tuổi, nằm trên ngọn Thứu Lĩnh - 1 trong 99 đỉnh núi Hồng, nơi được xem là Hoan Châu đệ nhất danh lam - lễ hội chùa Hương Tích đã có từ hàng trăm năm nay. Mỗi dịp xuân về, vào ngày mùng 6 tháng Giêng hằng năm, Hương Tích tự lại rộn ràng khai hội.
Chùa Hương Tích là một quần thể các công trình tôn giáo tín ngưỡng bao gồm: Thượng điện, nền Trang Vương, am Thánh Mẫu. Xung quanh chùa còn có nhiều thắng tích, kỳ quan như: động Tiên Nữ có 36 cửa vào, am Phun Mây, Miếu Cô, khe Tiên Tắm, suối Hương Tuyền, hồ Nhà Đường… Mỗi di tích gắn liền với những truyền thuyết, huyền thoại linh thiêng. Trong đó, đặc sắc nhất là câu chuyện công chúa Diệu Thiện - con gái vua Trang Vương nước Sở (Trung Quốc) bị vua cha ép duyên phải lấy một vị quan võ hung ác. Vì không đồng thuận, nàng bị truy sát, phải lánh nạn đến núi Hồng Lĩnh nước Việt Thường để lập am tu hành (nay là chùa Hương Tích, huyện Can Lộc).
Tuy vậy, khi nhà vua bị bệnh hiểm nghèo, Diệu Thiện đã tự nguyện hiến đôi mắt và đôi tay để làm thuốc cứu cha. Tấm lòng từ bi, hiếu thảo đó đã giúp công chúa Diệu Thiện hóa Phật bà trăm tay, nghìn mắt cứu độ chúng sinh. Cũng từ đó, nơi đây trở thành ngôi chùa được người dân quanh vùng ngày đêm hương khói, thờ tự. Vào thế kỷ XIII thời Trần, chùa được xây dựng khang trang. Trải qua hàng trăm năm, chùa đã nhiều lần được trùng tu, tôn tạo. Năm 1990, chùa Hương Tích được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ VH-TT&DL) xếp hạng di tích văn hóa - thắng cảnh cấp quốc gia.
Lễ hội chùa Hương Tích gồm 2 phần, phần lễ và phần hội. Trong đó, phần lễ gồm 2 lễ chính: lễ khai hội vào mùng 6 tháng Giêng hằng năm và lễ khánh đản Quán Thế Âm Bồ tát vào ngày 18 tháng Hai âm lịch - cũng là ngày công chúa Diệu Thiện hóa Phật. Sau các phần lễ là phần hội với nhiều hoạt động như: chương trình nghệ thuật đặc sắc; các hoạt động văn hóa, thể thao (chạy việt dã, thi đấu bóng chuyền), trò chơi dân gian: đấu vật cổ truyền, bịt mắt bắt vịt, kéo co…
Về với lễ hội chùa Hương Tích, du khách không chỉ về với cửa Phật mà còn để du xuân, ngắm cảnh, tận hưởng giây phút bình yên giữa thiên nhiên tươi đẹp, cùng nhau gửi gắm những ước nguyện tốt đẹp cho bản thân, gia đình và đất nước. Với những giá trị văn hóa lịch sử của lễ hội chùa Hương Tích, chính quyền huyện Can Lộc và Nhân dân xã Thiên Lộc đang nỗ lực làm dày thêm không gian lễ hội, qua đó, phát huy các giá trị văn hóa đặc sắc, nâng tầm lễ hội chùa Hương Tích trở thành di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia. Từ đó, hướng tới xây dựng thành sản phẩm du lịch lễ hội hấp dẫn, thu hút du khách mọi miền về với “Hoan Châu đệ nhất danh lam”.
2. Lễ hội Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác
Diễn ra trên vùng đất thượng ngàn Hương Sơn, lễ hội Hải Thượng gắn liền với những di sản Đại danh y Lê Hữu Trác để lại cho hậu thế.
Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác sinh năm Giáp Thìn 1724. Ông quê ở làng Liêu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương (nay là xã Liêu Xá, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên). Tuy nhiên, cuộc đời ông chủ yếu lại gắn bó với quê mẹ ở thôn Bàu Thượng (nay là thôn Bảo Thượng), xã Tình Diệm (nay là xã Quang Diệm), huyện Hương Sơn.
Lê Hữu Trác là đại danh y có đóng góp lớn cho nền y học dân tộc. Ông để lại một di sản đồ sộ về y học, văn học thông qua nhiều tác phẩm nổi tiếng như: bộ “Hải Thượng y tông tâm lĩnh” gồm 28 tập/66 quyển, các cuốn sách “Vệ sinh yếu quyết”, “Nữ công thắng lãm”, “Bảo thai thần hiệu diễn ca” và hàng trăm bài thơ… Cuộc đời và sự nghiệp của Hải Thượng Lãn Ông là tấm gương sáng về y đạo, y thuật cho người đời sau noi theo. Cuối năm 2023, Hải Thượng Lãn Ông đã được tổ chức UNESCO ra nghị quyết vinh danh và cùng tham gia kỷ niệm 300 năm ngày sinh Đại danh y.
Sau khi Lê Hữu Trác qua đời vào năm 1791, dòng họ và Nhân dân trong vùng đã xây lăng mộ, dựng nhà thờ để hương khói. Năm 1990, quần thể di tích lịch sử văn hóa Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (nhà thờ, mộ, tượng đài và chùa Tượng Sơn) được Bộ Văn hóa - Thông tin, nay là Bộ VH-TT&DL xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Năm 2024, Mộ và Khu lưu niệm Lê Hữu Trác đã được Bộ VH-TT&DL xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt.
Lễ hội Hải Thượng Lãn Ông hình thành từ các hoạt động tế lễ tri ân của người dân địa phương đối với Lê Hữu Trác vào ngày giỗ của ông (14 và 15 tháng Giêng). Những năm gần đây, lễ hội được các cấp chính quyền và người dân địa phương tích cực khôi phục, tổ chức trang trọng. Năm 2015, lễ hội Hải Thượng được Bộ VH-TT&DL công nhận là di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia.
Lễ hội Hải Thượng Lãn Ông kéo dài cả tuần, nhưng phần lễ chính thức diễn ra vào ngày 14 và 15 tháng Giêng. Không gian văn hóa lễ hội Hải Thượng gắn liền với quần thể di tích lịch sử văn hóa Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, trải dài trên cung đường gần 8 km. Điểm khởi đầu là khu mộ tại xã Sơn Trung, điểm giữa là chùa Tượng Sơn tọa lạc bên sông Ngàn Phố, lưng tựa vào dãy núi Seo Tượng (xã Sơn Giang) và điểm cuối là nhà thờ Lê Hữu Trác tại xã Quang Diệm.
Cũng như các lễ hội truyền thống khác, lễ hội Hải Thượng Lãn Ông gồm có 2 phần chính là phần lễ và phần hội. Phần lễ diễn ra tại các không gian chính, gồm: lễ dâng hương tưởng niệm tại khu mộ và nhà thờ; lễ giỗ tại nhà thờ; lễ tế và khai mạc lễ hội chính tại khu mộ; lễ cầu an, cầu sức khỏe tại chùa Tượng Sơn. Phần hội diễn ra nhiều hoạt động văn hóa, thể thao, trò chơi dân gian sôi nổi như: trình diễn nghệ thuật dân gian như: hát sắc bùa, dân ca ví, giặm; đua thuyền trên sông Ngàn Phố, làm diều, thả diều Hải Thượng, nấu các món ăn vị thuốc; kéo co, đẩy gậy, chọi gà…
Lễ hội Hải Thượng Lãn Ông là dịp để tăng cường mối đoàn kết, gắn bó của các tầng lớp nhân dân trong và ngoài huyện Hương Sơn; giữa thân nhân dòng họ Lê Hữu ở Hưng Yên và Hà Tĩnh; là môi trường giáo dục về y đức, y đạo, y thuật cho cán bộ và nhân viên ngành y, đồng thời bảo tồn, lưu truyền nét văn hóa truyền thống, giúp mọi người nhớ về thân thế, sự nghiệp của Đại danh y.
Lễ hội truyền thống Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác đã được UBND huyện Hương Sơn xem là một trong các sản phẩm du lịch trong Đề án “Phát triển du lịch huyện Hương Sơn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”.
3. Lễ hội Chế thắng phu nhân Nguyễn Thị Bích Châu
Một trong những phần lễ ấn tượng tại Lễ hội đền thờ Chế thắng phu nhân Nguyễn Thị Bích Châu (đền Bà Hải - phường Kỳ Ninh, TX Kỳ Anh) là thả nến hoa đăng trên bến thuyền trước cửa đền vào đêm diễn ra lễ hội. Trong màn đêm, dòng sông nằm bên cửa biển trở nên sáng rực với hàng ngàn ngọn hoa đăng lấp lánh, mang theo ước nguyện của du khách về trẩy hội, về một mùa xuân hạnh phúc, an lành.
Lễ hội đền thờ Chế thắng phu nhân Nguyễn Thị Bích Châu (hay còn gọi là đền Bà Hải) diễn ra vào 2 ngày: 11 và 12 tháng Hai âm lịch, gắn liền với lễ giỗ của bà và câu chuyện truyền thuyết về ngôi đền cũng như cuộc đời của một “Nữ trung hào kiệt” xả thân vì non sông đất nước. Theo sử sách, Chế thắng phu nhân Nguyễn Thị Bích Châu (? - 1377) tên thật là Nguyễn Cơ, tự Bích Châu, quê ở xã Bảo Lộc (Hải Hậu, Nam Định). Bà là con gái của vị đại thần họ Nguyễn rất mực thanh liêm và bà Phạm phu nhân. Khi lớn lên bà nổi tiếng xinh đẹp, thông minh, được vua Trần Duệ Tông tuyển vào cung, sau này phong làm Quý phi và rất được nhà vua sủng ái.
Là người thông tuệ, lại luôn lo lắng cho sự an nguy của xã tắc, trong bối cảnh đất nước còn nhiều rối ren, chính sự chưa yên, lòng dân bất ổn, bà Bích Châu đã dâng vua Trần Duệ Tông (1336-1377) bản “Kê minh thập sách” gồm 10 điều trị nước an dân, đến nay vẫn còn giá trị. Năm 1377, biên giới phía Nam Đại Việt bị giặc quấy rối, bà Bích Châu theo vua Trần Duệ Tông đem quân đi đánh Chiêm Thành. Trên đường chinh phạt, do bị trúng kế của quân địch, các viên tướng của nhà vua lần lượt tử trận, khi đó bà Bích Châu đã thân chinh đứng ra chỉ huy đạo quân bảo vệ nhà vua. Không may bị trúng mũi tên tẩm độc, vết thương quá nặng, bà trút hơi thở cuối cùng vào giờ Tý, ngày 11/2/1377 (Đinh Tỵ).
Linh cữu Quý phi Bích Châu được án táng tại cửa biển phường Kỳ Ninh và được Nhân dân lập miếu để thờ phụng, hương khói. Vua Lê Thánh Tông từng cảm kích đề tặng bà 4 chữ “Nữ trung hào kiệt”… Năm 1991, Di tích đền thờ Chế thắng phu nhân Nguyễn Thị Bích Châu được Bộ Văn hóa - Thông tin, nay là Bộ VH-TT&DL xếp hạng di tích lịch sử - danh lam thắng cảnh cấp quốc gia.
Lễ hội đền Bà Hải diễn ra với nhiều nghi thức độc đáo như: lễ rước Thánh, lễ giỗ, hầu văn, lễ yết gà, thả đèn hoa đăng, lễ tế lợn, lễ tế gà. Trong đó, tối 11/2 (âm lịch), có lễ tiên thường, cáo tế. Cỗ tế là “cỗ thục” (cỗ chín), có xôi, thịt lợn và gà luộc. Suốt đêm, chức sắc, hào lão chia nhau túc trực hương đèn. Một số trai tráng cũng được cắt cử ở lại đền để phục dịch. Đặc sắc nhất là lễ rước linh vị ra bờ sông dự hội chèo bơi hầu Thánh Mẫu. Khi linh vị Thánh Mẫu được rước ra đến nơi thì người dân đã chen kín cả bờ sông. Mỗi cuộc bơi thường có 3 thuyền dài, mỗi thuyền có 20 tay chèo với màu áo khác nhau và 2 người điều khiển. Cờ mở, trống giong 3 hồi thì thuyền xuất phát. Khi lễ hội kết thúc, làng lại rước linh vị Đức Thánh Mẫu trở về Đền.
Hiện nay, Phòng Văn hóa - Thông tin TX Kỳ Anh đang tham mưu các cấp, ngành tăng cường sưu tầm, xây dựng để lễ hội đền Bà Hải trở thành lễ hội cấp quốc gia. Qua đó, góp phần bảo tồn, gìn giữ, kế thừa và phát huy giá trị văn hóa; giáo dục truyền thống yêu nước cho thế hệ trẻ. Đồng thời, đưa lễ hội trở thành sản phẩm du lịch hấp dẫn thu hút du khách gần xa.
4. Lễ Giỗ Quốc Tổ Hùng Vương
Lễ Giỗ Quốc Tổ Hùng Vương tại TX Hồng Lĩnh diễn ra trong thời gian từ 3-4 ngày, trong đó lễ chính vào ngày 10/3 âm lịch hằng năm. Lễ giỗ gồm nhiều hoạt động văn hóa gắn liền với Khu di tích lịch sử văn hóa chùa Đại Hùng (thuộc phường Đậu Liêu), nơi thờ Thủy tổ Kinh Dương Vương và các Vua Hùng duy nhất trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.
Theo truyền thuyết, Kinh Dương Vương húy Lộc Tục, sinh năm Nhâm Ngọ (2919 trước Công nguyên). Năm 2879 trước Công nguyên, Kinh Dương Vương lên ngôi lập nhà nước Xích Quỷ. Ban đầu, ông chọn núi Ngàn Hống (địa phận TX Hồng Lĩnh ngày nay) để đóng đô, sau đó dời đô về Ao Việt (tỉnh Phú Thọ). Kinh Dương Vương kết duyên với Long Nữ sinh ra Sùng Lãm (hiệu là Lạc Long Quân). Lạc Long Quân kết duyên với Âu Cơ sinh ra một cái bọc, nở ra 100 quả trứng, mỗi trứng nở ra 1 người con trai; người con trưởng là Hùng Vương thứ nhất. Khi Hùng Vương thứ nhất được truyền ngôi, quốc hiệu đặt là Văn Lang.
“Dù ai đi ngược về xuôi - nhớ ngày Giỗ Tổ mùng mười tháng Ba”. Trải bao thăng trầm của lịch sử, tín ngưỡng thờ cúng các Vua Hùng vẫn được bền bỉ trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, trở thành bản sắc văn hóa, đạo lý truyền thống của người Việt Nam, thể hiện lòng biết ơn của các thế hệ cháu con với công đức của tổ tiên trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Kế tục truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, tại Hà Tĩnh, hằng năm, đến dịp mùng mười tháng Ba, người dân cùng các tăng ni, phật tử lại trở về Khu di tích chùa Đại Hùng để thành kính dâng hương bày tỏ tri ân các bậc Thủy Tổ nước Việt.
Lễ Giỗ Quốc Tổ Hùng Vương cũng gồm 2 phần. Phần lễ có: lễ dâng cúng vật phẩm của các địa phương, lễ tế dân gian, lễ rước linh vị Thủy Tổ và Quốc Tổ Hùng Vương, phần nghi lễ Nhà nước (tổ chức vào sáng mùng mười tháng Ba). Phần hội gồm nhiều hoạt động văn hóa, thể thao như: hội thi gói, nấu bánh chưng dâng lên Quốc Tổ; giải bóng đá tranh Cúp Hùng Vương; dạ hội văn nghệ; các trò chơi dân gian…
Đại lễ Giỗ Quốc Tổ Hùng Vương là sự kiện văn hóa quan trọng nhằm khơi dậy tình yêu quê hương, đất nước, lòng tự hào dân tộc. Đây cũng là dịp địa phương tuyên truyền, quảng bá về Khu di tích lịch sử văn hóa chùa Đại Hùng đến du khách khắp mọi miền. Hiện nay, chính quyền và người dân TX Hồng Lĩnh đang nỗ lực sưu tầm, làm dày thêm các nghi thức, hoạt động để nâng tầm Lễ Giỗ Quốc Tổ Hùng Vương thành lễ hội có quy mô mang tầm quốc gia.
Hà Tĩnh hiện có hơn 70 lễ hội truyền thống, trong đó có 47 lễ hội diễn ra trong dịp mùa xuân. Các lễ hội mang những màu sắc khác nhau, phản ánh sự đa dạng bản sắc văn hóa, con người Hà Tĩnh. Thực hiện Nghị quyết 18-NQ/TU của BCH Đảng bộ tỉnh về “Xây dựng, phát triển văn hóa và con người Hà Tĩnh trong giai đoạn mới”, các cấp chính quyền và địa phương đang nỗ lực để bảo tồn và phát huy giá trị các lễ hội, trong đó, chú trọng gắn lễ hội truyền thống với phát triển du lịch.