Sau 2 trận bão mạnh và các đợt triều cường lớn, tổ dân phố (TDP) Vĩnh Phú (phường Trần Phú) có 25 ha rừng ngập mặn phía bên tả ngạn sông Nghèn bị hư hại, trong đó gần 2 ha gần cầu Hộ Độ bị đổ gãy nặng. Đây là cánh rừng có giá trị cao về phòng hộ, cảnh quan, môi trường sinh thái… được trồng cách đây hơn 20 năm, hiện được giao cho cộng đồng cư dân quản lý. Dù rừng mang nhiều ý nghĩa, nhưng đã 2 tháng sau thiên tai các diện tích bị hư hại vẫn chưa phục hồi.
Ông Lê Văn Hương - Tổ trưởng TDP Vĩnh Phú cho biết: “Đến nay, rừng ngập mặn trên địa bàn chưa được thu dọn cây cối đổ gãy, chưa cắt tỉa để phục hồi những cây còn có khả năng sống sót, chưa có phương án trồng dặm để thay thế những diện tích đã bị “xóa sổ”. Nguyên nhân là do thiếu kinh phí, thiếu cây giống, chưa được bà con quan tâm đúng mức và chưa được cấp trên chỉ đạo, hướng dẫn việc phục hồi rừng”.
Rừng ngập mặn sau thiên tai phục hồi chậm còn vì những yếu tố khách quan khác. Anh Nguyễn Trọng Vinh - Giám đốc Công ty TNHH Xây dựng và Thương mại Thanh Nhân (một đơn vị trồng rừng ngập mặn ở Hà Tĩnh) cho biết: “Việc người dân tự trồng rừng ngập mặn rất khó vì ngoài việc lựa chọn các loại cây phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng, môi trường, độ mặn của vùng nước thì còn phải có kiến thức, kỹ thuật, theo dõi sâu bệnh tấn công, các loài nhuyễn thể gây hại. Mặt khác, trên địa bàn tỉnh ta hiện nay chưa có cơ sở ươm giống cây rừng ngập mặn, phải mua ở Hải Phòng và Quảng Ninh nên cần thời gian đặt hàng, ươm giống, thuần dưỡng theo môi trường của mình và chi phí cao…”.
Với các nguyên nhân như trên nên nhiều diện tích rừng ngập mặn ven biển Hà Tĩnh (nhất là ở các cửa sông, cửa lạch lớn như Cửa Hội, Cửa Sót, Cửa Nhượng, Cửa Khẩu) đang thiếu sức sống sau các đợt thiên tai liên tiếp. Việc hồi phục của các “con đê xanh” chủ yếu diễn ra tự nhiên. Các cộng đồng dân cư được giao quản lý hầu như chưa có biện pháp, phương án dọn dẹp, chăm sóc, theo dõi để trồng mới, tái sinh rừng. Do vậy, các cánh rừng ngập mặn phục hồi chậm, thậm chí nhiều nơi vẫn đang tiếp tục bị “bào mòn”.
Dọc theo 137 km trên đường bờ biển, hàng trăm ha rừng phòng hộ chủ yếu là phi lao, bạch đàn và tràm bị mưa bão làm hư hại cũng đang trong tình cảnh tương tự rừng ngập mặn. Theo đó, việc dọn dẹp, tận thu cây cối đổ gãy, chăm sóc với những cây còn có khả năng sống và trồng dặm, trồng thay thế diễn ra khá chậm. Nguyên nhân là bị người dân bỏ mặc (đối với diện tích giao khoán và người dân tự bỏ vốn trồng) và phải xây dựng hồ sơ, trình phương án tận thu cho các cấp có thẩm quyền phê duyệt (loại do xã hoặc các ban quản lý rừng làm chủ). Ngoài ra, do đặc thù nên việc trồng rừng phòng hộ ven biển khá kén chọn loài (chủ đạo là phi lao) nên ảnh hưởng đến tiến độ khôi phục rừng, hiện chỉ mới lác đác một số nơi có giống để trồng thay thế.
Ông Nguyễn Văn Sơn ở thôn Hải Lợi (xã Tiên Điền) chia sẻ: “Tôi có 3 sào phi lao sát bờ biển bị gió bão quần tan nát. Vì sức khỏe yếu, phi lao lại bán rẻ như cho, nhu cầu củi đun không nhiều nên tôi đang thu dọn từ từ. Hiện, tôi không mặn mà trồng lại vì nó không mang về giá trị kinh tế và phải mất đến hơn 20 năm chăm sóc, bảo vệ mới được như hôm nay. Mặt khác, cây phi lao giống trên thị trường rất khan hiếm, thu gom cây tự nhiên thì không đáng kể nên tôi không nóng vội trong việc khôi phục rừng”.
Với thực trạng như hiện nay, việc phục hồi, phát triển các “tuyến đê xanh”, “bức tường thành mềm” dọc theo bờ biển sẽ gặp nhiều khó khăn, cần nhiều thời gian. Vì vậy, các cấp, ngành cần có phương án, kế hoạch bố trí kinh phí, bổ sung nguồn cây giống, hướng dẫn kỹ thuật, đôn đốc người dân, các chủ rừng đẩy nhanh tiến độ tận thu rừng bị hư hại nặng, chăm sóc tốt những diện tích bị tác động nhẹ, đồng thời sớm trồng mới ở những nơi đã bị “xóa sổ”.